1-Dây cứt quạ lá nguyên (Gymnopetalum integrifolium): Thân dây leo, có thể đạt chiều dài đến 5 m. Lá mịn, phân thùy không rõ, lá non luộc hoặc nấu canh rau ăn được. Mặt dưới lá có nhiều lông. Quả có dạng hình ellip hoặc hơi tròn, kích thước 4x5 cm, còn non có màu xanh, khi chín có màu vàng cam. Quả không độc nhưng có vị khó ăn.
Dây cứt quạ lá nguyên
a- Lá dây cứt quạ dùng làm rau
Cây cứt quạ mọc ở những nơi đất hoang, ở bãi trống và trong rừng thứ sinh, nhất là ở những nơi mới đốt rẫy, san bằng, cuốc xới.
Ở Việt nam cây cứt quạ phân bố từ Lạng Sơn cho tới Phú Quốc, từ vùng thấp cho tới vùng cao 1.000m. Thu hái các bộ phận của cây quanh năm; thường dùng tươi.
Lá dùng để làm rau luộc, xào, nấu canh ăn có tác dụng giải nhiệt, bổ dưỡng.
b-Các bộ phận của dây cứt quạ dùng làm thuốc
Tính vị, tác dụng: Cứt quạ có vị đắng, tính lạnh, không độc; có tác dụng trừ nhiệt, giải khát, tiêu độc, thoái ban, trừ phiền, bài nùng, trừ đờm, cắt cơn ho.
2-Dây cứt quạ lá khía (Gymnopetalum cochinchinensis): Cây thảo mảnh, mọc bò, phân nhánh nhiều, dài 1-2m . Lá hình 5 cạnh, dạng tim ở gốc, mép lượn sóng thành răng, dài 4-6cm, rộng 3-5cm, có khi với 3 thuỳ ngắn hình tam giác, có lông hơi ráp; cuống lá có lông rậm dài 3-4cm, tua cuốn đơn. Cụm hoa đực từng đôi ở mỗi nách lá, cái thì chỉ có 1 hoa, cái kia 3-8 hoa có cuống; hoa cái đơn độc. Quả đỏ, dạng bầu dục, thon hẹp ở gốc, có mũi, với 10 cạnh, dài 5cm , rộng 2,5-3cm. Hạt nhiều, màu nâu, hình bầu dục.
Dây cứt quạ lá khía
a-Thực phẩm và biến chế
Người ta dùng đọt dây cứt quạ để luộc ăn như tất cả các dây leo thuộc họ Cucurbitaceae khác.
b-Công dụng dược liệu
+Công dụng, chỉ định và phối hợp: Nhân dân dùng cành lá làm rau luộc ăn hay nấu canh. Lá cũng làm mồi câu cá mè Vinh. Tại Minh Hải, người ta chế ra thuốc trấn ban cho phụ nữ trong thời kỳ sinh đẻ.
Ở Ấn Độ, người ta dùng toàn cây phối hợp với những vị thuốc khác chế thuốc cho phụ nữ sinh đẻ uống. Rễ giã nát phối hợp với nước ấm dùng xoa xát vào người khi đau mình mẩy và teo chân tay. Quả độc nhưng có thể dùng ăn khi còn non. Nước sắc lá dùng làm thuốc giải độc khi trúng độc và dùng phòng trị uốn ván sau khi bị sẩy thai. Dịch ép của lá dùng chữa viêm mắt. Nước sắc toàn cây dùng uống có tác dụng trừ đờm và cắt cơn ho trong bệnh về phổi.
Ở Lào, người ta dùng lá để duốc cá.
+Những nghiên cứu dược tính: Dây cứt quạ có tác dụng: ức chế sự kết dính những tiểu cầu, co thắc cơ trơn.
+Nghiên cứu độc tính: Khi người tiêm dưới da, hay dùng từ chất ly trích đã xấy khô với alcool nước tỹ lệ 1 :1, 10 g / kg. Kết quả quan sát, con chuột không gây ra độc tính nào .
+Đặc tính trị liệu: Theo y học đông phương thì cứt quạ có: vị đắng, tính lạnh, không độc, có tác dụng giải nhiệt, tiêu độc, thoái ban, trừ phiền, trừ đờm, cắt cơn ho.
Ở Ấn Độ, người ta dùng tất cả bộ phận cây và phối hợp với những vị thuốc khác để chế tạo thuốc chữa trị cho phụ nữ sinh đẻ uống.
Rễ giã nát phối hợp pha với nước ấm dùng xoa xát vào người trong trường hợp bị : đau nhức mình mẩy và teo chân tay.
Theo dược điển Thái lan : Đun sôi trái cứt quạ Gymnopétalum cochinchinense, sử dụng nước đã lọc là một dược thảo dùng để chống trong trường hợp : sốt fièvre,
+Dây cứt quạ là một loại dược thảo trị độc :
- Nước đun sôi trái cứt quạ xem như là một nước bổ dưỡng, có vị hơi đắng cho những trái cứt quạ khô.
- Có tác dụng trung hòa hay vô hiệu hóa những độc tố trong một vài loại trái.
- Với tính chất khử độc của cây nên dây cứt quạ có tác dụng giải độc, làm sạch nước miếng giúp tiêu hóa thức ăn .
- Trung hòa nước bị nhiễm độc, uống vào trong máu để nuôi da và dưỡng da.
Người ta dùng dây cứt quạ để thanh lọc nước giếng.
+Tác dụng chữa trị bệnh đàn bà, sanh đẻ :
- Chữa trị trong trường hợp hư thai định kỳ, viêm tử cung (inflammation de l'utérus).
- Là thuốc bổ tử cung sau khi bị sẩy thai và cũng là một nước thuốc bổ máu có liên quan đến tử cung,
- Dây cứt quạ có tác dụng trung hòa chất độc, tạo yếu tố điều kiện cho bữa ăn ngon miệng,
- Dùng tiêu độc tử cung sau khi sanh đẻ, cần duy trì bổ dưởng gây ăn uống ngon miệng.
- Dây cứt quạ dùng trấn ban cho phụ nữ mới sinh con, cho bệnh tử cung sau khi sanh đẻ thiếu tháng, chữa trị chứng sốt thường có sau khi sanh đẻ (la fièvre de lait).
+Ngoài ra, nước nấu dây cứt quạ còn dùng để trị :
- Lấy lại bữa ăn ngon khi bị bệnh nhân nhiễm cơn sốt, bệnh sốt rét do nước đã bị nhiễm vi trùng,
- Cơn sốt, sốt đi sốt lại không dứt
- Dung dịch nước ép chữa trị đau mắt.
- Người ta dùng rể giả nát pha với nước nóng, xoa xác vào người để : giảm đau nhức, teo chân tay,
+Phương thức sử dụng của y học dân gian :
- Ngâm hay đun trong nước sôi, nước dùng để bổ máu nuôi cơ thể.
- Nấu sắc décoction, nước sắc được dùng để : giải độc và phòng uốn ván khi xảy thai,
Nước nấu sắc toàn cây dùng : trừ đờm, cắt cơn ho của chứng bệnh phổi,
Và là thuốc chữa trị những chứng sốt fièvre.
+Hiệu quả xấu và rủi ro : Trái cây ăn được khi còn xanh và khi quả chín trở nên độc, không nên ăn
Nguồn: Nguyễn thanh Vân