Mới đây trên tạp chí The Maritime Issues, tiến sĩ Satoru Nagao, nhà nghiên cứu tại Viện Hudson (Mỹ), đã đề cập đến khả năng triển khai các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân có mang tên lửa hạt nhân của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bài viết nhắc lại lời của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe năm 2012, nhận định Biển Đông dường như đang bị Trung Quốc biến thành “ao nhà” (…) Đây là một vùng biển có độ sâu đủ để hải quân Trung Quốc triển khai các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân, có thể vận hành các tên lửa có gắn đầu đạn hạt nhân.
Theo tiến sĩ Nguyễn Việt Phương, cựu nghiên cứu viên tại Trung tâm Belfer, Đại học Harvard (Mỹ), một chuyên gia hạt nhân, hiện Trung Quốc có sáu tàu ngầm đạn đạo hạt nhân và có chiến lược hạt nhân tương đối thận trọng với lực lượng hạt nhân không lớn.
Từ các tàu ngầm hạt nhân
- Vì sao không nhiều người nhắc đến sự nguy hiểm của tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc, nhất là khi nước này có ý đồ độc chiếm Biển Đông?
- TS Nguyễn Việt Phương: Có thể nói rằng nếu so với Mỹ hay Nga (và trước đây là Liên Xô) thì Trung Quốc vẫn là quốc gia đi sau trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho tàu biển và tàu ngầm. Trong năm cường quốc là thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và cũng là năm cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân thì Trung Quốc là quốc gia cuối cùng phát triển thành công tàu ngầm hạt nhân.
Theo các thông tin chính thức thì hiện Trung Quốc mới có sáu tàu ngầm đạn đạo hạt nhân (một chiếc thuộc lớp Hạ - Type 092 và năm chiếc thuộc lớp Tấn - Type 094) và mới đang bắt đầu phát triển các tàu nổi sử dụng năng lượng hạt nhân. Vì lý do này mà giới nghiên cứu và báo chí cũng chưa thực sự quan tâm.
- Các tàu ngầm đạn đạo hạt nhân đóng vai trò gì trong chiến lược hướng biển của Trung Quốc?
- Về chiến lược hạt nhân, cần phải khẳng định rằng nếu so với các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân khác như Mỹ, Nga, Pháp hay thậm chí là các quốc gia mới sở hữu vũ khí hạt nhân gần đây như Ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên thì Trung Quốc có chiến lược hạt nhân tương đối thận trọng với lực lượng hạt nhân không lớn.
Điều này đến từ nguyên tắc khá nhất quán của Trung Quốc từ trước đến nay đó là răn đe hạt nhân (nuclear deterrence) chỉ dùng cho mục đích phòng thủ.
Theo đó, Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân để tấn công đối phương trước (no-first-use). đây là những chính sách mang tính kiềm chế đáng được khuyến khích trong bối cảnh Mỹ và Nga đang ngấp nghé ở ngưỡng cửa chạy đua hạt nhân trở lại, sau sự đổ vỡ của các hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân như ABM, START II và gần đây nhất là INF. Vì lý do này mà đội tàu ngầm đạn đạo hạt nhân của Trung Quốc cũng không lớn (tổng số sáu tàu, trong khi Nga có 15 tàu và Mỹ có tới 18 tàu).
Nhìn chung sự tồn tại của đội tàu này là để răn đe các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân khác và đồng minh của họ (như Nhật Bản - đồng minh của Mỹ và được Mỹ bảo vệ về mặt hạt nhân trong chiến lược “ô hạt nhân” của nước này) chứ không nhằm áp chế các quốc gia láng giềng có tranh chấp lãnh thổ với nước này.
Ngược lại, việc Trung Quốc đẩy mạnh giành quyền kiểm soát các đảo, đá ở Biển Đông một phần chính là để tăng khả năng bảo vệ cho các tàu ngầm đạn đạo hạt nhân này khi di chuyển từ các căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam ra khu vực Thái Bình Dương.
Cần có giải pháp đối phó với đội tàu ngầm, nhất là tàu tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân của Trung Quốc ở biển Đông. Ảnh:Reuters. |
- Khả năng tấn công bằng các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc thì sao, thưa ông?
- Ngoài các tàu ngầm đạn đạo hạt nhân - vốn chủ yếu phục vụ mục đích phòng thủ, răn đe hạt nhân, Trung Quốc còn sở hữu các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân thuộc lớp Hán (Type 091) và Thương (Type 093). Tuy Trung Quốc không thực sự là quốc gia đi đầu trong việc phát triển công nghệ tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân - đặc biệt là trong việc giảm độ ồn hoạt động cho tàu - nhưng chín tàu ngầm lớp Hán và Thương này vẫn là công cụ áp chế hữu hiệu của Trung Quốc trong các xung đột trên biển, bởi chúng thừa hưởng những ưu thế vượt trội của việc sử dụng năng lượng hạt nhân như tầm hoạt động gần như là vô hạn, trọng lượng nước rẽ lớn (cho phép chứa nhiều vũ khí lớn và hiện đại hơn như tên lửa hành trình).
Vì vậy, các nước ở Biển Đông sẽ phải quan tâm nhiều hơn tới đội tàu này (chứ không phải các tàu đạn đạo hạt nhân), mặc dù hiện nay ít có khả năng Trung Quốc sẽ dùng đội tàu này làm công cụ răn đe. Chủ lực của Trung Quốc vẫn là các lực lượng truyền thống (hải cảnh, dân quân biển) và đội tàu đang được xây dựng một cách cấp tập, trong đó đặc biệt nguy hiểm là các tàu sân bay Liêu Ninh, tàu sân bay lớp 001A và sắp tới là các tàu sân bay lớp 002, 003.
Đến nhà máy điện hạt nhân nổi
- Ngoài tàu ngầm hạt nhân, các nhà máy điện hạt nhân nổi của Trung Quốc nguy hiểm ra sao?
- Trung Quốc trong khoảng một thập niên trở lại đây đã bắt đầu ấp ủ tham vọng triển khai các nhà máy điện hạt nhân nổi ra Biển Đông. Họ thậm chí nhắc tới việc sẽ đưa cả chục nhà máy dạng này ra các đảo, đá do nước này chiếm đóng để phục vụ việc thăm dò, khai thác dầu và tăng khả năng sinh tồn của các cộng đồng người Trung Quốc trên các đảo nhân tạo do họ xây dựng trái phép.
Sự nguy hiểm của các nhà máy điện hạt nhân nổi phần lớn đến từ nguy cơ rò rỉ phóng xạ đối với môi trường biển và các đảo trên Biển Đông, nhất là khi các nước khác hay các tổ chức quốc tế như Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA) chỉ có thể đề nghị giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp việc đảm bảo an toàn của các cơ sở này.
Bên cạnh đó, việc Biển Đông có mật độ tàu bè đi lại dày đặc và việc biến đổi khí hậu khiến tần suất, cường độ bão nhiệt đới ở khu vực này ngày càng khó lường cũng làm tăng thêm nguy cơ mất an toàn, an ninh với các nhà máy điện hạt nhân nổi của Trung Quốc.
Cuối cùng, tất nhiên sự hiện diện của các nhà máy điện hạt nhân nổi vốn có khả năng cung cấp cả điện năng và nước ngọt sẽ giúp Trung Quốc tăng khả năng chiếm giữ các đảo, đá, đảo nhân tạo trên Biển Đông, khiến các tranh chấp lãnh thổ tại khu vực này càng trở nên phức tạp và đẩy các quốc gia trong khu vực vào thế yếu trong tranh chấp.
- Xin cám ơn ông.
Các nước phải vào cuộc ngay để ngăn Trung Quốc
- Theo ông, việc cấp thiết nhất để hạn chế Trung Quốc triển khai các loại tàu, nhà máy năng lượng hạt nhân ở Biển Đông là gì?
- Việt Nam và các nước khác cần phải hành động ngay từ lúc này để ràng buộc Trung Quốc về mặt pháp lý, dựa trên cơ sở luật biển và các công ước liên quan tới an toàn, an ninh hạt nhân. Mục tiêu cơ bản nhất là giảm tốc độ triển khai lực lượng hạt nhân trên biển của Trung Quốc, kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với sự xuất hiện của một yếu tố có thể gây rủi ro về an toàn, an ninh cho khu vực này, không để Trung Quốc tạo được “sự đã rồi”.
- Đông Nam Á được xem là khu vực tích cực theo đuổi môi trường phi vũ khí hạt nhân. Trong bối cảnh đó, ASEAN nên làm gì?
- Từ năm 1997, các nước Đông Nam Á đã ký và thông qua hiệp ước cam kết khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (Hiệp ước Bangkok). Theo đó, các nước Đông Nam Á đã đạt được đồng thuận về việc không phát triển vũ khí hạt nhân, không cho phép các nước khác đặt vũ khí hạt nhân, không thử vũ khí hạt nhân trong khu vực, không đổ chất thải hạt nhân và ngăn chặn các nước khác làm việc tương tự tại vùng Biển Đông Nam Á.
Cùng với đó, các nước Đông Nam Á cũng đã đề nghị các nước sở hữu vũ khí hạt nhân (trong đó có Trung Quốc) ký nghị định thư về việc tôn trọng các điều khoản của Hiệp ước Bangkok và không sử dụng vũ khí hạt nhân để đe dọa hoặc tấn công các nước đã ký Hiệp ước Bangkok. Trung Quốc cho đến nay vẫn trì hoãn việc gia nhập nghị định thư của hiệp ước này.
Như vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa việc thuyết phục các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, đặc biệt là Trung Quốc, ký kết nghị định thư nói trên để giảm bớt nguy cơ có thể đến từ sự hiện diện của lực lượng hạt nhân của Trung Quốc tại Biển Đông. Với việc Mỹ, Anh, Pháp đang ngày một quan tâm đến tình hình an ninh khu vực Biển Đông, các nước trong khu vực nên đề nghị họ xem xét ký nghị định thư trước để tạo thêm sức ép buộc Trung Quốc đồng thuận với Hiệp ước Bangkok.
Nguồn: https://news.zing.vn/chien-luoc-hat-nhan
-cua-trung-quoc-o-bien-dong-lau-dai-rat-nguy-hiem-post991059.html